DIỄN ĐÀN HỌC SINH SINH VIÊN THPT BẮC DUYÊN HÀ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Latest topics
» Sửa chữa Smartphone – nghề thời thượng
by hoangyencps 14/1/2014, 8:58 pm

» Teen thời @ ôn thi đại học như thế nào?
by hoangyencps 14/1/2014, 8:56 pm

» Sửa chữa Smartphone – nghề thời thượng
by hoangyencps 14/1/2014, 8:52 pm

» Nhật kí ngày 08 tháng 10 năm 2011 !
by c'lesvie 8/8/2013, 6:24 pm

» Lựa chọn trung tâm luyện thi: tiêu chí nào?
by tongphuong 16/5/2013, 3:21 pm

» [Image]Tổng hợp cổng trại các lớp
by nguyendinhlich23 8/2/2013, 4:36 pm

» Bí mật áo trắng
by dongphuchk 1/10/2012, 4:42 pm

» Kí ức những ngày mưa_BDH
by zozo 26/5/2012, 12:13 am

» Music and Lyric (Như khúc tình ca) - Bạch Dương
by ooyeuem00 2/5/2012, 2:54 pm

» Mot Chut Hoi Uc Tuoi Hoc Tro`
by Thanh_Luan.chel 3/4/2012, 5:58 pm

» Ngoài kia ai còn biết tên…
by Bạch Dương 3/4/2012, 11:39 am

» Cách mạng giáo dục: “Xét xử” những lỗi nhỏ và “hành quyết” những sai lầm lớn
by Bạch Dương 3/4/2012, 10:50 am

» Truyện ngắn: Về ngồi lại bên đời
by Bạch Dương 3/4/2012, 10:46 am

» [a2k47 ảnh] những ngày cuối năm học
by a2k47 28/3/2012, 7:05 pm

» hôm 26-3 qua trường
by a2k47 28/3/2012, 6:56 pm

» Tin buồn ...!!!
by a2k47 28/3/2012, 6:50 pm

» Lớp nào thành công nhất Bắc Duyên Hà 2010?
by honey_smile0206 27/3/2012, 1:13 am

» 10 cách thư giãn và giảm stress hiệu quả
by sinhdaphu 26/3/2012, 9:56 pm

» ĐH Vinh mở thêm ngành Kỹ thuật điều khiển và tự động hóa
by sinhdaphu 26/3/2012, 9:53 pm

Thống Kê
Hiện có 2 người đang truy cập Diễn Đàn, gồm: 0 Thành viên, 0 Thành viên ẩn danh và 2 Khách viếng thăm

Không

[ View the whole list ]


Số người truy cập cùng lúc nhiều nhất là 534 người, vào ngày 23/9/2011, 7:39 pm
LIKE

Ôn thi cấp tốc môn ngữ văn: tổng hợp hoàn cảnh ra đời các tác phẩm

Go down

26062011

Bài gửi 

Ôn thi cấp tốc môn ngữ văn: tổng hợp hoàn cảnh ra đời các tác phẩm Empty Ôn thi cấp tốc môn ngữ văn: tổng hợp hoàn cảnh ra đời các tác phẩm




VỘI VÀNG
"Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng rút trong tập “Thơ Thơ” (1938). Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn tha thiết. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.

TRÀNG GIANG
(HUY CẬN)
Năm 1939 vào một chiều thu, Huy Cận đứng ở bờ năm bến Chèm (Hà Nội), lặng ngắm toàn cảnh sông Hồng mênh mông tĩnh vắng, chạnh nhớ tới kiếp người nhỏ bé nổi trôi giữa dòng đời vô tận. Một nỗi buồn ngờm ngợp dấy lên từ đáy hồn thi sĩ, bủa trùm trời đất và lòng người. Nỗi buồn vừa gợi hứng sáng tác, vừa là cốt lõi của cảm xúc thơ. Huy Cận đã từng tâm sự: "Tôi có thú vui thường vào chiều Chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương". Đến với "Tràng Giang" ta như đến với một bức tranh thiên nhiên sông nứơc hầu như đã trở thành cổ điển, mà linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu mênh mang. Qua mỗi khổ thơ, tác giả điểm thêm một nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại vẫn là bát ngát mênh mông mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn lụi, cô đơn, bơ vơ trôi nổi, chia lìa, phiêu bạt. Đây là nỗi buồn cô đơn rợn ngợp của cá thể trước không gian 3 chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà hợp cảm thông giữa người và người trong tình đất nước và tình nhân loại.

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

(HÀN MẶC TỬ)
Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" tiêu biểu cho những vần thơ sáng trong mĩ lệ đặc biệt hiếm có trong thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc tử. Được biết trong thời gian làm công nhân sở Đạc Điền Quy Nhơn, Hàn thầm yêu Hoàng Kim Cúc – con gái ông chủ sở, cô gái Huế chơi đàn nguyệt rất hay. Nhà hai người ở gần nhau, cùng đi chung một lối sau đó Hoàng Cúc theo cha về Vĩ Dạ - một vùng quê thơ mộng ở ngoại ô Huế. Hoàng Cúc là người yêu trong đơn phương, lặng thầm của Hàn thi sĩ. Mùa hè 1939 người anh họ của Hoàng Cúc là Hoàng Tùng Ngâm (bạn Hàn Mặc tử) viết thư về Huế báo cho Cúc biết Tử mắc bệnh nan y và đang điều trị tại trại phong Tuy Hoà, khuyên Cúc viết thư thăm Tử để an ủi một tâm hồn trong trắng bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chuyến đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mất lời thăm hỏi Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian tôi nhận được bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" và một bài nữa do Ngâm gửi về” (Thư Hoàng Cúc gửi Quách Tấn ngày 15/10/1971). Chính Hoàng Cúc cũng không ngờ “trí tưởng tượng của thi nhân quá khác thường”
Bài thơ lúc đầu có tựa đề “Ở đây thôn Vĩ Dạ” và được in trong tập “Thơ Điên”. Đây là thi phẩm đựơc xếp vào hàng kiệt tác của thơ ca lãng mạn Việt Nam 30-45, là một bức tranh tuyệt đẹp về Vĩ Dạ và xứ Huế được thêu dệt bằng những xúc cảm lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của một tâm hồn nghệ sĩ giàu mộng mơ, yêu tha thiết cảnh sắc và con người Huế, khát khao sự sống, tình yêu nhưng mang nỗi đau lớn về sự chia lìa. Ở đó có sự hài hoà tuyệt đẹp giữa mộng và thực trong thơ Hàn.


CHIỀU TỐI
"Chiều Tối" là bài thơ số 31 của "Nhật Kí Trong Tù" ghi lại cảm xúc cuộc chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo trong chuỗi ngày bị bọn Tưởng Giới Thạch giam cầm ở Quảng Tây.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
(HỒ CHÍ MINH)
Cách mạng tháng 8 thành công vào ngày 19/8/1945 nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chính quyền về tay nhân dân. Nhưng tình hình nước ta lúc bấy giờ đang có nhiều kẻ thù nhòm ngó, nhiều đế quốc thực dân đang chuẩn bị xâm chiếm nứơc ta bao vây từ nhiều phía
Phía Bắc là quốc dân đảng đằng sau là Mĩ
Phía Nam là quân đội Anh đắng sau là viễn chinh Pháp
Phe đế quốc Anh, Pháp, Mĩ cấu kết với nhau đối lập với Liên Xô tạo cơ hội cho Mĩ Anh nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương. Pháp chuẩn bị cho cuộc xâm lược lần thứ hai với những lời lẽ của kẻ ăn cướp, chúng tung ra trong dư luận quốc tế “Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp thuộc phe đồng minh lại có công khai hoá đất nước này nên nay trở lại là lẽ đương nhiên” khi mà Phát xít Nhật đã bị phe đồng minh đánh bại.
Ngày 26/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khi cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Trong không khí tưng bừng phấn khởi của nhân dân của nước vừa giành được độc lập tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội Người soạn thảo bản "Tuyên Ngôn Độc Lập".
Ngày 2/9/1945 Người thay mặt chính phủ lâm thời nứơc Việt Nam dân chủ cộng hoà đọc "Tuyên Ngôn Độc Lập" tuyên bố với thế giới trước hết là Anh Pháp Mĩ. Tuyên bố quyền độc lập tự do và quyết tâm sắt đá bảo về quyền tự do của dân tộc.


TÂY TIẾN (QUANG DŨNG)
Quang Dũng là nhà thơ tài hoa tinh thông nhiếu lĩnh vực nghệ thuật nhưng nổi bật hơn cả là thơ ca. Thơ ông thể hiện cái tôi hào hoa thanh lịch, giàu chất lãng mạn. Nhắc đến Quang Dũng ta không thể quên "Tây Tiến" một thi phẩm đặc sắc trong đời thơ của ông. Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây:
1. Sau khi cách mạng tháng 8 thành công, Quang Dũng gia nhập bộ đội. Năm 1947, ông tham gia đoàn quân Tây Tiến với chức vụ đại đội trưởng.
2. Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu, hiểm trở, núi cao sông sâu.
3. Những người lính trong đoàn quân Tây Tiến năm ấy chủ yếu là học sinh, trí thức ra đi từ những mái trường, từ phố phường Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các anh vẫn phơi phới tinh thần lạc quan anh hùng.
4. Người lính mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính "Tây Tiến" đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động.
5. Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, khi dự hội nghị toàn quân ở Phù Lưu Chanh tác giả bồi hồi nhớ lại những kỉ niệm kháng chiến cùng đồng đội ở đơn vị cũ trong những tháng năm ở miền biên cương Tây Bắc. Những ngày tháng gian khổ mà hào hùng ấy đã rung lên những dây tơ xúc cảm trong tâm hồn nhà thơ viết nên bài thơ "Tây Tiến". Bài thơ ban đầu có tựa đề “Nhớ Tây Tiến" in trong tập thơ “Mây Đầu Ô”



ĐẤT NƯỚC
(NGUYỄN ĐÌNH THI)

Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài. Ông viết sách thảo luận triết học, viết văn làm thơ, soạn nhạc ở lĩnh vực nào cũng lưu được dấu ấn trong nền nghệ thuật đương đại của Việt Nam. Bạn đọc đặc biệt nhớ đến Nguyễn Đình Thi với những sáng tác thơ ca về đất nước vất vả đau thương nhưng tươi thắm vô ngần, trong đó có thi phẩm "Đất nước". Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây:
Bài thơ được sáng tác trong một khoảng thời gian khá dài từ 1948 đến 1955 gần súôt cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai tác phẩm tiền thân là “sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948) và “Đêm mittinh” (1949). Đến năm 1955, Nguyễn Đình Thi đã chọn lọc những ý tứ đặc sắc của 2 bài thơ trên, bằng ngòi bút tài hoa và xúc cảm mãnh liệt về quê hương đất nước,ông đã cho ra đời bài thơ "Đất nước", bài thơ được in trong tập “Người chiến sĩ” (1958). Thi phẩm được viết từ sự tổng hợp nâng cao các mảng sáng tác trong những thời điểm khác nhau nhưng người đọc không hề nhận thấy dấu vết của sự chắp vá, lắp ghép mà cảm nhận được mạch thống nhất bởi tác giả viết bằng cảm xúc nhất quán về đất nước, con người Việt Nam. "Đất nước" là một chỉnh thể nghệ thuật, một bài thơ liền mạch ghi lại cả một quá trình cảm xúc, suy nghĩ của người chiến sĩ – nhà thơ Nguyễn Đình Thi về tổ quốc, nhân dân anh hùng bất khuất trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đây là một áng thơ hay vào bậc nhất của thơ ca kháng chiến tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Đình Thi khi viết về đất nước. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ là niếm tự hào, ngợi ca dân tộc, con người Việt Nam từ trong “bùn lầy” và “máu lửa” đã vùng lên chiến đấu quật cường bất khuất, hào hùng “rũ bùn đứng dậy sáng loà” trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp.

VỢ CHỒNG A PHỦ
(TÔ HOÀI)
"Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc”(1953)
“Truyện Tây Bắc” gồm 3 truyện “Cứu đất cứu mường”, “Mường giơn”, "Vợ chồng A Phủ".
Tác phẩm là kết quả của những đợt nhà văn thâm nhập thực tế cuộc sống của đồng bào dân tộc ít người vùng Tây Bắc, đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Sau chuyến đi dài 8 tháng cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). , ông đã sống gắn bó và nghĩa tình với đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Hmông…, có những hiểu biết sâu sắc về mảnh đất miền Tây”. “Kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi nhiều quá”. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác”
Tác phẩm đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân. Họ - mà tiêu biểu là bà lão Ảng (Cứu đất cứu mường), gia đình ông Mờng và dân làng Mường Giơn (Mường Giơn ), Mị và A Phủ ("Vợ chồng A Phủ") bị tước đoạt tài sản, bóc lột sức lao động và xúc phạm nhân phẩm. Trong cảnh đau thương tột cùng đó, cách mạng đã đến với họ và họ đã thức tỉnh.
“Truyện Tây Bắc” là một thành công của Tô Hoài trong việc nhận thức, khám phá hiện thực kháng chiến ở một địa bàn đặc biệt vùng cao phía Tây Bắc tổ quốc đặc biệt là những khám phá mới mẻ sâu sắc về số phận và tâm hồn người lao động nghèo miền núi Tây Bắc trên hành trình đến với cách mạng. Tác phẩm in rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật đặc sắc của Tô Hoài: màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ, chất trữ tình thấm đựơm, ngôn ngữ và lời văn giàu tính tạo hình.
Tác phẩm được giải nhất về truyện, kí (đồng hạng với Đất Nước đứng lên của Nguyên Ngọc) giải thưởng của hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955.
Truyện kể về quá trình tự vươn lên đổi đời và sự thức tỉnh cách mạng của hai thanh niên người Mèo: Mị và A Phủ, thoát khỏi kiếp đời nô lệ trong tay cha con thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài để tìm đến khu du kích mới ở Phiềng Xa trở thành những du kích dũng cảm chiến đấu giữ bản làng.

VỢ NHẶT
(KIM LÂN)
Tác phẩm đề cập đến nạn đói năm 1945. Năm 1940 Nhật xâm chiếm Đông Dương bắt nhân dân ta nhổ lúa trông đay. Bọn thực dân sau khi thua ở Đông Dương thì ra sức bóc lột nhân dân để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới bọn địa chủ cường hào ở nông thôn ngày càng ức hiếp dân lành. Mất mùa vì hạn hán, lũ lụt xảy ra thường. Bởi thế đến xuân Ất Dâu năm 1945 nạn đói chưa từng có trong lịch sử đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Những cảnh chết đường chết chợ, tha phương cầu thực diễn ra hết sức thê lương. Trong hoàn cảnh đó con người biết chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử đầy hào hiệp.
Mặt trận Việt Minh đã vùng dậy tổ chức nhân dân phá kho thóc Nhật cứu giúp người nghèo và tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" có tiền thân là một truyện dài nằm trong dự định của Kim Lân - tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Nhưng sau đó mất bản thảo, thất lạc và Kim Lân muốn dồn đọng lại nội dung ý tưởng trong một tập truyện ngắn – đó là lí do "Vợ nhặt" truyện ngắn độc đáo ra đời. Sau khi hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt truỵên cũ và viết truyện ngắn này. Truyện chứa đựng dung lượng hiện thực lớn mà nhà văn lấu bối cảnh hiện thực năm đói 1945. Nhưng điều mà nhà văn muốn gửi gắm không chỉ là hiện thực thê thảm của năm đói mà ông muốn thắp sáng vẻ đẹp tình người trong những năm tháng tối tăm, thê thảm ấy. Tác phẩm được hoàn thành ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).

TIẾNG HÁT CON TÀU (CHẾ LAN VIÊN)
Bài thơ được Chế Lan Viên viết vào năm 1960 in trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa”. Đó là thời điểm miền Bắc sau năm kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hối hả bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Cuộc vận động người miền xuôi lên xây dựng cuộc sống mới ở miền núi những năm 58-60 của Đảng đã cổ vũ khích lệ rất lớn cho bao văn nghệ sĩ, giúp họ nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, ý thức được trách nhiệm lớn lao của người cầm bút với nhân dân đất nước. Bao bạn bè đã lên đường nhưng Chế Lan Viên vì ốm nặng mà không thể ra đi. Lòng ông cháy bỏng khát khao được đến với cuộc đời rộng lớn, hoà nhập vào tổ quốc bao la.
Sự kiện kinh tế chính trị của Đảng khi ấy chỉ là cái cớ khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho nhà thơ. Chế Lan Viên không minh hoạ thuần tuý, không hô hào suông cho chủ trương chính sách của Đảng mà diễn tả những tình cảm sâu nặng của một người nghệ sĩ. Bài thơ là lời mời gọi là khát vọng lên đường đến những miền đất xa, đến với đất nước bao la nhân dân vĩ đại; đồng thời là khúc hát về lòng biết ơn, tình yêu và sự gắn bó với nhân dân, đất nước của một hồn thơ khi được trở về với ngọn nguồn của sáng tạo nghệ thuật.

VIỆT BẮC
(TỐ HỮU)
Tố Hữu là một nhà thơ chiến sĩ, người thư kí trung thành của thời đại. Ông đến với thơ ca không ngoài mục đích phụng sự cho lí tưởng cách mạng, cho đảng, nhân dân. Nhắc đến thơ Tố Hữu ta phải kể đến một bài thơ được đánh giá là xuất sắc trong đời thơ của ông. Đó là “Việt Bắc". Bài thơ có hoàn cảnh ra đời dưới đây:
Sau chiến thắng Điện Biên phủ (7/5/1954), hiệp định Giơnevơ được kí kết, hoà bình lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10/1954 cơ quan TW đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc nơi đã che chở nuôi dưỡng cho cách mạng trong suốt những năm trường kì chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.
Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt từ chiến tranh sang hoà bình, từ núi rừng về thành thị, người ra đi có biết bao lưu luyến ân tình với con người Việt Bắc đã cùng đồng cam , cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc nhằm ôn lại những kỉ niệm kháng chiến đồng thời nhắc nhở mọi người không quên cội nguồn của thắng lợi và cùng tin tưởng, hi vọng vào tương lai đất nước.
In trong tập “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Đoạt giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam 1954-1955.


NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(NGUYỄN TUÂN)
Xét về hoàn cảnh sáng tác có thể xem "Người lái đò sông Đà" nói riêng và tập “tuỳ bút sông Đà” nói chung khẳng định một bứơc chuyển hoá mới của văn chương Nguyễn Tuân trước thực tế mới của đất nước. Có người đã khẳng định tập sách này là dấu son mới mẻ trong văn nghiệp của nhà văn họ Nguyễn. (Thời kì này văn học đòi hỏi phản ánh chân thực hùng hồn cuộc sống mới, con người mới). Đến với cuộc sống, ông khám phá theo cách của mình. "Người lái đò sông Đà" là một tuỳ bút đặc sắc trong 15 thiên tuỳ bút của tập sách và một bài ở dạng phác thảo.
Tác phẩm in trong tập “Sông Đà” (1960) gồm 15 bài tuỳ bút, một bài ở dạng phác thảo.
Đây là kết quả của chuyến nhà văn “xê dịch” lên Tây Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp nhất là chuyến đi lên miền Tây 1958.
Vẻ đẹp uy nghi kì vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc với dòng sông Đà và những con ngừơi Tây Bắc, những con ngừơi tài hoa trí dũng đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt để Nguyễn Tuân viết tuỳ bút sông Đà. Đó cũng chính là “chất vàng mười trong tâm hồn vùng Tây Bắc" mà nhà văn kiếm tìm được khi phỉ chí hải hồ của một người nghệ sĩ săn tìm cái đẹp và đi trong tâm trạng có quê hương.
Xét về hoàn cảnh chủ quan: tác phẩm vốn là cách khám phá cái đẹp của Nguyễn Tuân vẫn là cách thay đổi thực đơn cảm giác của ông, song cái đẹp đó không còn chỉ dừng lại ở sự thưởng thức của cái tôi cá nhân phục vụ cho cá nhân mà mở rộng biên độ đến với cuộc đời, đến với người lao động bình thường. Trước đây văn chương ông thu vào độ hẹp, giờ toả ra độ rộng.
"Người lái đò sông Đà" là một bài tuỳ bút đầy chất thơ, là một công trình khảo cứu công phu và điều tra xác thực về Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã vận dụng những tri thức sâu rộng của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để cung cấp cho người đọc những hiểu biết bổ ích lí thú vè ngọn nguồn lai lịch, địa thế hiểm trở của con sông Đà cũng như phương thức vượt thác leo ghềnh, công cuộc chinh phục thiên nhiên của người lao động Tây Bắc.

RỪNG XÀ NU
(NGUYỄN TRUNG THÀNH)

"Rừng Xà Nu" đựơc hoàn thành năm 1965, sau được đưa vào tập truyện kí "Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc" xuất bản năm 1969. Sáng tác của Nguyễn Trung Thành mang đậm tính sử thi. "Rừng Xà Nu" là một truyện ngắn rất tiêu biểu cho khuynh hướng đó.
Viết tác phẩm vào 1965 khi đế quốc Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam khi ấy những kỉ niệm về Tây Nguyên về cây xà nu sống dậy mạnh mẽ trong tâm hồn tác giả.
Tái hiện lại một thời kì lịch sử dữ dội, ngột ngạt và đen tối nhất của phong trào cách mạng miền Nam trước ngày Đồng Khởi 55-59. "Rừng Xà Nu" là một bản anh hùng ca về đồng bào anh hùng bất khuất trong cuộc kháng chiến cách mạng.


SÓNG
(XUÂN QUỲNH)

Bài thơ được sáng tác tại bãi biển Diêm Điền (Thái Bình) ngày 29/12/1967 được in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bao trùm toàn bài thơ là hình tượng "Sóng" gắn liền với hình ảnh nhân vật trữ tình “em”.

ĐẤT NƯỚC
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)

Bài "Đất nước" trích từ chương V của trường ca "Mặt Đường khát vọng". Đây là một trừơng ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên và được in lầu đầu vào văn 1974.
Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm ở miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sức mạnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh thoả hiệp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Trong đó chương V với nhan đề "Đất nước" là sự cảm nhận của nhà thơ về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nứơc và giữ nước. Tư tưởng chủ đạo của chương V đó là: nhà thơ khẳng định "Đất nứơc này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại".
Để thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại; Nguyễn Khoa Điềm đã chọn được cách thức diễn đạt rất đặc sắc mượn lời của người con trai nói với người con gái về tình yêu tổ quốc. Với cách diễn đạt như vậy, nhà thơ đã mềm hoá vấn đề chính trị và khiến cho tình cảm chung cũng nồng cháy như tình yêu lứa đôi. Hơn nữa Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách diễn đạt giản dị từ ngữ thuần Việt dễ hiểu sử dụng chất liệt dân gian tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Bạch Dương
Bạch Dương
Admin

Tên đầy đủ Tên đầy đủ : Vũ Đức Anh

Khoá học Khoá học : 48
Lớp Lớp : A11
Chuyên môn : Ngoại ngữ

Tổng số bài gửi : 483
BDH-Coins BDH-Coins : 59731
Danh vọng : 63
Ngày tham gia diễn đàn : 07/01/2010
Tuổi : 31
Đến từ : Học viện Báo chí Tuyên truyền

http://www.bacduyenha.org

Về Đầu Trang Go down

Share this post on: reddit
- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết